Khu du lịch thác đamb'ri

https://dambri.com.vn


KHÁM PHÁ BỘ SƯU TẬP VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC TÂY NGUYÊN TẠI KDL THÁC ĐAMB'RI

Khu du lịch Thác Đambri, nằm cách trung tâm thành phố Bảo Lộc (Lâm Đồng) khoảng 18km, không chỉ là một kiệt tác thiên nhiên với dòng thác hùng vĩ cao 60m và rộng 30m giữa rừng nguyên sinh xanh ngát, mà còn là nơi lưu giữ và tái hiện sống động bộ sưu tập văn hóa đồng bào dân tộc Tây Nguyên. Nơi đây, du khách có cơ hội lạc bước vào thế giới của các dân tộc bản địa lâu đời như Châu Mạ (hay còn gọi là Mạ) và K'Ho – những cư dân tiên phong đã gắn bó với cao nguyên Lâm Đồng qua hàng nghìn năm.Với khoảng 43.000 người Mạ sinh sống chủ yếu tại Bảo Lộc, Đam Rông và các huyện phía Nam Lâm Đồng, cùng hơn 200.000 người K'Ho phân bố ở vùng núi cao như Di Linh và Lạc Dương, bộ sưu tập này không chỉ trưng bày các hiện vật thủ công tinh xảo mà còn kể câu chuyện về sự sáng tạo, kiên cường và bản sắc văn hóa của họ. Qua lăng kính của những dụng cụ sinh hoạt, săn bắt, lao động, nhạc cụ và trang sức, du khách sẽ cảm nhận được hơi thở của núi rừng Tây Nguyên, nơi chế độ mẫu hệ của người K'Ho trao quyền chủ động cho phụ nữ trong hôn nhân, và người Mạ – thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer – vẫn giữ gìn nương rẫy như một phần linh hồn cộng đồng.

I. Các Dụng Cụ Trong Đời Sống Sinh Hoạt Của Người Dân Tộc

Bộ sưu tập mở đầu bằng những vật dụng gần gũi, phản ánh sự khéo léo và thích nghi của người dân tộc Tây Nguyên với thiên nhiên.

plai lenh
Plai lềnh (trái bầu)

- Plai lềnh (trái bầu) là một trong những hiện vật tiêu biểu, làm từ giống bầu đắng với vỏ dày, cứng, hái khi quả già. Người dân ngâm bùn để khử đắng, tạo màu nâu xám, rồi xát lá hoặc vỏ cây rừng cho đen bóng.

Quả bầu khô là vật dụng gắn bó không thể thiếu trong đời sống của người đồng bào dân tộc Tây Nguyên nói chung và người K'Ho ở Lâm Đồng nói riêng.Họ thường dùng những quả bầu khô được chế tác khéo léo để đựng nước và nhiều việc khác như đựng rượu, đựng hạt giống…
Quy trình làm quả bầu khô gồm 3 giai đoạn: làm sạch ruột, tạo màu cho vỏ bầu khô và đánh bóng sản phẩm. Đầu tiên, họ sẽ chọn những quả bầu khô có hình dáng và kích thước đẹp, phù hợp với từng loại vật dụng định chế tác, mang phơi nắng từ một đến hai tuần. Sau khi khoét miệng quả bầu, họ mang quả bầu ngâm xuống nước hoặc bùn, trong vòng 1 đến 2 tháng,để phần ruột tróc ra. Sau đó, bầu được lấy lên súc sạch hoàn toàn phần ruột và khử mùi. Vỏ bầu tiếp tục được mang ra phơi nắng hoặc hong gác bếp để tránh mối mọt, có độ bền, không thấm nước…Sau đó quả bầu khô sẽ được tạo màu (màu vàng bóng bằng cách phơi nắng, màu đen nâu bằng những chất liệu từ lá cây rừng, treo gác bếp…). Vỏ bầu khô thường được làm thành các vật dụng, như đồ đo lường, chế tác nhạc cụ, vật dụng trong các nghi lễ…
Quả bầu khô không chỉ là một vật dụng, mà còn là một sản phẩm sáng tạo trong đời sống tinh thần của cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên. Quả bầu khô gắn bó với mỗi người từ khi còn thơ ấu cho đến khi trưởng thành rồi già đi, có khi nó cỏn được trao gửi lại cho con cháu.

- Đoan sra (nón), đan từ nan tre không cụt ngọn, tránh chặt ngày mưa để giữ độ bền.

doan sra
Đoan sra (nón)


- Ra nai, pal (cối, chày giã gạo) gợi nhớ lịch sử cổ xưa, với cối làm từ gỗ lộc vừng gần gốc – thớ dai, ít nứt. Kích thước tùy mục đích, cách làm: đẽo sơ khi gỗ tươi, khô rồi khoét miệng bằng than cháy đỏ và nạo. Chày dài 2-3m từ gỗ lớn, dai. Các nhà khoa học tìm thấy cối chày cổ ở Tây Nam Á từ 35.000 TCN, chứng minh đây là di sản nhân loại.
 

ra nai pal
Ra nai, pal (cối, chày giã gạo)
 Chất liệu: Gỗ
Nội dung hiện vật
Cối là vật dụng phổ biến của người Mạ, dùng để giã gạo hay các sản phẩm nông nghiệp khác trong quá trình chế biến thức ăn. Đi cùng với cối là chày giã gạo, thông thường một cối có hai chày (một ngắn, một dài).
Cối thường được làm bằng một đoạn gỗ khá chắc chọn trong rừng. Cối có dáng thấp, miệng khá rộng, xung quanh thân cối có khắc hoa văn hình răng cưa (chày cũng được làm bằng thanh gỗ cứng, chế tác đơn giản).
dong hieng
NIA TRÁI TIM
Thông tin hiện vật

Nia là vật dụng sinh hoạt hàng ngày khá phổ biến của người Mạ ở tỉnh Lâm Đồng.Với đởi sống tự túc tự cấp trước đây, họ phải tự tạo ra những vật dụng phục vụ cho nhu cầu đời sống hàng ngày.Nia thường được dùng để sảy tách vỏ trấu, cám ra khỏi gạo sau khi giã, ngoài ra còn dùngđựng các loại hạt giống và hoa màu như bắp, đậu… để mang đi phơi.
Chiếc nia trái tim này là sản phầm thủ công của nghề đan lát truyền thống người Mạ. Nó rất thuận tiện cho việc đổ thóc vào cối giã, hạn chế việc thóc rơi ra ngoài. Nia được đan từ các thanh tre, nứa và dây mây. Các vật liệu này được lựa chọn theo kinh nghiệm (cây không quá non, quá già, dây mây dài có màu vàng hoặc xanh để khi buộc đảm bảo vừa vặn, mượt mà cho sản phẩm). Kỹ thuật đan chủ yếu là cài lóng mốt, đôi, ba hoặc cài nan hình lục giác kết hợp lối kết nan, quấn nan khá tinh xảo, đầy sáng tạo. Các sản phẩm sau khi hoàn thiện đều được đặt trên giàn bếp để hun khói tạo thêm độ bền cho sản phẩm.



- Gláh ụ (nồi đất) có lịch sử hơn 3.000 năm trên lãnh thổ Việt Nam, nặn từ đất sét pha tro bếp chống nứt, phơi 7-10 ngày, quét vỏ cây crưm (lộc vừng) cho bóng, nung 30 phút. Dùng nấu cơm, đồ ăn, đun nước tắm trẻ, ngâm thuốc; nồi nhỏ cho thờ cúng, nồi lớn nấu nước màu nhuộm chỉ (củ nghệ vàng, lá rừng xanh). Đặc biệt, Gláh ụ còn là nồi hấp với Crúh géh dơng (phần trên đan tre nứa khít, ngâm nước hơ lửa chống nứt).

glah u
Gláh ụ (nồi đất)

 

glah u 2
Gláh ụ (nồi đất)
glah u 3 noi hap
Gláh ụ: nồi hấp
cruh geh dong
RÁ ĐỰNG CƠM
Thông tin hiện vật 

Rá đựng cơm là vật dụng quen thuộc trong sinh hoạt thường ngày của người Mơ Nông ở xã Liêng S’Ronh, huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng.
Rá được chia làm hai phần chính: phần đựng cơm và phần chân đế. Phần đựng cơm được đan dày bằng những nan tre nhỏ xung quanh vành miệng tròn được cạp bằng mây và trang trí bằng nhiều chùm sợi màu. Phần chân đế được đan kết thưa và uốn theo dạng hình trục choãi tròn (tựa như chân trống đồng).
 
tong
Tòng (bát đất nung sẫm kèm đũa tre buộc dây) dùng cúng thần linh, cho than hoặc bột hương đốt khói như lời khấn vái.


- Gláh căng (nồi đồng) xuất hiện đầu thế kỷ XVIII từ dòng họ Nguyễn Văn ở Đà Nẵng, đỉnh cao 1940-1945, lan rộng từ đồng bằng đến Tây Nguyên. Làm từ đồng bền vững ("nồi đồng cối đá"), dáng đáy cong, bụng phình, cổ thắt miệng loe tỏa nhiệt đều. Phân loại theo kích cỡ: lớn 4 quai nấu tế thần, nhỏ 2 quai hoặc không quai luộc sắn khoai, đựng rượu cần trong lễ hội như mừng lúa mới, nhà mới, cúng bến nước, đặt tên con, cưới hỏi, ma chay. 

glah cang
Gláh căng (nồi đồng)




Chén Vân Long sứ Trung Quốc thời Minh-Thanh (1368-1911), du nhập Việt Nam thế kỷ XV-XVI qua thương mại, dùng cúng tế, yến tiệc cung đình. 

ngan
Chén Vân Long
bat dong
Bát đồng
Bát đồng gắn với văn hóa Churu ở Lâm Đồng, minh chứng giao lưu cộng đồng.
chi vo da wuayr viep
Chi vớ dạ, wuâyr viếp (muỗng, đũa gỗ tre múc nước khuấy canh);

 

ding on ra nai
Ding ơn ra nài (ống đựng đũa to bếp, nhỏ đi rừng);

 

ding voh
Ding vóh (ống tre nhỏ đựng gia vị như muối ớt, nắp đậy chống ẩm); Mơng chích (chày giã nhỏ);
viet chuh sai
Viết chúh sai (lược chải chí rận từ tre nứa gỗ, răng khít gỡ trứng).
khieu tet khieu nho
Khiêu tết (ống đựng đồ cá nhân như thuốc).
ka nor on ntha vlo
ỐNG ĐỰNG VÔI
Hình dạng: Hình trụ.
Kỹ thuật chế tác: Công nghiệp.
Nội dung hiện vật
Tương truyền tục ăn trầu có từ thời Hùng Vương, gắn liền với câu chuyện cổ tích cảm động về tình cảm anh em, vợ chồng. Từ đó, tục ăn trầu đã phổ biến ở mọi tầng lớp, từ bình dân đến quý tộc, cung đình, trở thành một nết đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam. “Miếng trầu là đầu câu chuyện” giúp con người gần gũi, cởi mở với nhau hơn. Miếng trầu nhân lên niềm vui khi khách đến chơi nhà được mời trầu; tiệc cưới có đĩa trầu để chung vui; ngày lễ tết miếng trầu mời người lạ để làm quen, kết bạn; với người quen miếng trầu là tri ân, tri kỷ. Miếng trầu còn biểu hiện sự thành kính của thế hệ sau với thế hệ trước qua mâm cỗ thờ cúng gia tiên, tế lễ thần linh…
Trong bộ dụng cụ ăn trầu, bình vôi là vật quan trọng nhất. dùng chứa vôi đã tôi, sền sệt, màu trắng để ăn với trầu cau. Bình thường có dáng tròn vẹt, trổ một lỗ tròn làm miệng ở vai bình, trên chóp có quai xách. Khi bình vôi đã cạn thì đổ thêm vôi đã tôi vào, lâu ngày lớp vôi cũ bám chặt vào thành bình phía trong và cứng dần, không dùng được nữa.
 
pal chich ntha vlo
CỐI TRẦU
Chất liệu: Đồng.
Kỹ thuật chế tác: Thủ công.
Nội dung hiện vật
Cối trầu là dụng cụ có hình dáng tựa như chum uống rượu, kích thước to nhỏ khác nhau tùy vào nhu cầu của người dùng. Những người lớn tuổi hoặc răng yếu thường cho hỗn hợp trầu cau và vôi vào cối trầu, dùng chày (một cái que bằng kim loại) để nghiền nhỏ trước khi cho vào miệng nhai.
plai yu
Tẩu hút thuốc
- Tẩu hút thuốc là vật dụng gần gũi với đồng bào Tây Nguyên.Hút thuốc bằng tẩu là tập tục khá phổ biến trong cộng đồng người dân tộc K'Ho và Mạ ở tỉnh Lâm Đồng.
Tẩu hút thuốc bằng gỗ được gọt đẽo công phu, miệng bịt đồng, thân và chuôi bọc bạc. Thuốc lá dùng để hút được phơi khô, sắt sợi. Họ nhồi sợi thuốc lá vào đầu tẩu rồi dùng mồi lửa đốt cháy để hút nhâm nhi mỗi khi lên nương rẫy. Người Tây Nguyên quan niệm hút thuốc lá bằng tẩu sẽ dễ kiểm soát việc say thuốc lá, giữ được lửa đốt thuốc lâu hơn, tạo sự minh mẫn và đuổi được muỗi trong lúc làm rẫy. Hầu như trước đây cả nam và nữ người dân tộc K'Ho, Mạ trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng đều hút thuốc và tẩu hút thuốc thường được người dân tự tay chế tác.
 
prar
Prar (cào rác gom lá) quét cành cây quanh nhà.

Những hiện vật này không chỉ là công cụ mà còn là minh chứng cho sự gắn kết cộng đồng người Mạ – những người đã trải qua biến đổi lịch sử nhưng vẫn giữ gìn phong tục nương rẫy, như tục ăn trầu biểu tượng kết nối.

II. Các Dụng Cụ Dùng Để Săn Bắt

Phần săn bắt sống động tái hiện cuộc sống dũng cảm và đầy bản lĩnh của người K'Ho và Mạ, những cư dân gắn bó sâu sắc với núi rừng Tây Nguyên hùng vĩ.

1. Săn bắt trên cạn
- Sơr na (nỏ) từ thời Chiến Quốc Trung Quốc (481-221 TCN), gắn truyền thuyết An Dương Vương, làm từ gỗ rắn đàn hồi (đường kính 15-20cm, khúc giữa), hong khô bếp, chuốt cánh thẳng, buộc dây bền, bắn xa 500m.
Sơr na (nỏ)


- Mũi tên (kòn na) từ tre, lồ ô, le, nứa già, đuôi 3 cánh lá rừng, dài ½ cánh nỏ; săn nhỏ dùng thường, săn lớn tẩm độc. Trai Mạ từ 10-15 tuổi học nỏ (soh na tét nhỏ tập, soh na tờng lớn trưởng thành), đựng trong Ding kon na.

ta 1
Tạ (giáo) từ văn hóa Đông Sơn (thế kỷ VII TCN-I SCN), cán gỗ chắc, đầu sắt thép ngạnh; loại to đâm trâu, nhỏ (lao) phóng nhanh chống thú dữ.
Kiếm, dao găm từ 4.000 năm trước (văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu), bằng đồng, dùng săn lượm, bảo vệ làng.
Che cớt rawas (dây mây) bện sợi ngâm nước phơi khô, buộc giáo nỏ, dựng nhà, bẫy thú.
CHỤP MỐI
Nội dung hiện vật
Chụp mối là dụng cụ của người K'Ho dùng để bắt mối làm thức ăn. Đây là một trong những sản phẩm đan lát tiêu biểu từ tre nứa, dây mây, có dạng hình phễu với nhiều kích cỡ khác nhau. Điểm khác biệt của chụp mối với những dụng cụ đánh bắt khác là nó được đan 2 lớp tương đối giống nhau, rất dày và chắc chắn. Thân của chụp mối được kết lại từ nhiều thanh tre nhỏ và dài; phần miệng lớn được làm bằng những sợi mây dài, vót mỏng; phần miệng nhỏ để trút mối ra thì dùng búi cỏ hay rơm rạ nhét kín lại khi bắt mối. 
Vào đầu mùa mưa, đồng bào dân tộc K'Ho thường vào rừng bắt mối. Khi tìm được những gò mối, để bắt mối dễ dàng, họ dùng khói thổi vào các cửa của ụ mối, sau đó dùng chụp mối chụp trên những cửa của gò mối. Khi mối bị say khói sẽ bò lên chui vào cái chụp mối và bị mắc kẹt lại trong đó. Khoảng 30 phút sau, họ nhấc chụp mối lên và lắc đều làm cho cánh mối rụng hết rồi đổ vào giỏ mang về.
Mối được ủ chua trong những ống tre, nứa để thay cho dầu mỡ, hoặc rang ăn với cơm, cháo chua.

 


2. Săn bắt dưới nước 
Các dụng cụ đánh bắt cá được đan bằng tre, mây, sắp hình chóp, chừa lối cho cá, lươn,… bơi vào nhưng không ra được, thường được đặt ở những nơi ngược dòng nước chảy để cá, tôm, lươn,… chui vào .Ngoài ra còn sử dụng vỏ trái bầu khô hoặc giỏ đan bằng tre, nứa để làm giỏ đựng cá, giỏ đựng mồi câu khi đi đánh bắt cá. Từ những trái bầu già có hình nậm, đáy phình to, họ bỏ ruột, ngâm bùn, chùi nhọ nồi cho đen bóng và khoét gọt

Ndóh (giỏ bầu khô hình nậm); Kriết: giỏ đựng cá làm bằng tre
GIỎ ĐỰNG CÁ
Chất liệu: Lồ ô.
Kỹ thuật chế tác: Thủ công.
Thông tin hiện vật
Giỏ đựng cá là vật dụng thường thấy trong đời sống sinh hoạt của người Chu Ru tại tỉnh Lâm Đồng.
Ngoài việc săn bắt thú rừng, người Chu Ru còn đi bắt cá, tôm ở những con sông, suối, mương, rạch, ao hồ trong địa bàn cư trú của họ. Những vật dụng bắt cá của họ, ngoài lờ, đó, chài…, còn có giỏ đựng cá.
Giỏ đựng cá này được đan bằng lồ ô, một sản phẩm của nghề đan lát truyền thống từ lâu đời của người Chu Ru. Giỏ có phần miệngloe ra, bên dưới miệng hóp lại, phần thân giỏ phình to và phần hom hình phễu. Cá, tôm, cua… một khi đã đựng vào giỏ thì không thể nào thoát ra được.
 
Yul (srọ nhỏ): bắt cá
Khiêu: xúc lúa/cá;
 
Nir Gir ca, gir clun rổ xúc thủ công;
Cơr nhọ : gàu tát nước 
Gàu tát nước là vật dụng phổ biến trong hoạt động sản xuất nông nghiệp của người Chu Ru ở tỉnh Lâm Đồng. Để chăm sóc lúa và hoa màu luôn cần có nước. Người Chu Ru sử dụng nước sông, suối để đưa vào các con mương chảy dọc ngang trên các vùng trồng lúa và hoa màu. Để đưa nước lên những mặt ruộng có độ chênh lệch với nguồn nước không cao, ngày trước khi chưa có máy bơm, người Chu Ru dùng một dụng cụ chuyên dụng đơn giản là Gàu tát nước. 
Gàu tát nước này được làm bằng nan lồ ô (bỏ hết phần cật), ngâm nước cho mềm, sau đó dùng dây mây kết lại. Quai gàu bằng sợi mây uốn cong, kết liền và đỡ lấy miệng gàu. Khi tát nước, người Chu Ru dùng một tay cầm quai gàu, tay còn lại đỡ đáy gàu, vục miệng gàu xuống múc nước rồi vung tay tát nước trong gàu lên ruộng. 
Ngoài việc tát nước vào ruộng, người Chu Ru còn dùng gàu tát cạn nước những con mương, đoạn suối nhỏ để bắt cá, tôm.
sro
ĐÓ
Chất liệu: Mây, tre.
Trước đây, địa bàn cư trú của đồng bào dân tộc K'Ho chủ yếu là vùng rừng núi, nên săn bắt, hái lượm có vai trò quan trọng trong đời sống hàng ngày của họ. Săn bắt thú rừng là việc của đàn ông, còn đàn bà sẽ làm những việc nhẹ nhàng hơn, như hái lượm các loại rau, quả rừng, hay bắt cá, tôm ở sông, suối với các dụng cụ thông dụng như: Đó, Lờ, Nơm…
Đó là một trong những sản phẩm từ nghề đan lát truyền thống của đồng bào K'Ho, dùng để bắt tôm cá. Đó được đan từ tre và các sợi dây mây, cấu tạo chính từ một ống tre được giữ nguyên “mắt tre” ở phần đỉnh chóp.Phần lóng tre được chẻ mỏng và đều thành các thanh nhỏ, kết lại với nhau bằng các sợi dây mây nhỏ, bên trong phần miệng Đó có hom nhỏ để giữ cá lại.
Trong những lúc đi nương rẫy chăm sóc cây trồng, hái rau, nhặt củi…, đồng bào K'Ho mang theo những công cụ bắt cá này để tranh thủ đặt xuống suối bắt cá, tôm, cua… Cách sử dụng Đó là dùng bùn đất, kết hợp thân cây hoặc các vật dụng sẵn có khác đắp chắn ngang dòng nước, để nước chảy vào một khe hẹp là nơi đặt Đó.Tôm, cá di chuyển theo dòng nước qua hom vào trongĐó sẽ không thoát ra được. Cá, tôm bắt được sẽ dùng chế biến thức ăn thường ngày.
LỜ BẮT LƯƠN
Kích thước: Dài 70cm.
Lờ bắt lươn này được người K'Ho ở Lâm Đồng dùng bắt lươn chế biến thức ăn. Lờ gồm có 2 phần: phần thân và phần hom. Phần thân được làm từ một ống tre (dài khoảng 70cm), một đầu ống giữ nguyên mắt, phần lóng còn lại chẻ thành các nan nhỏ và đan kết lại bằng các sợi dây mây thành hình phễu rộng. Phần hom đặt giữa lờ có hình phễu làm bằng tre.
 
Khi sử dụng Lờ bắt lươn, đồng bào K'Ho bỏ vào trong lờ các loại mồi có mùi tanh, sau đó đặt lờ xuống ruộng hoặc nơi có dòng nước chảy nhẹ. Lươn chui vào Lờ ăn mồi và nằm lại, không chui ra được vì bị phần hom giữ lại.
 
Jrúp ca (nơm) hình nón cụt tre mây, úp lội bắt ruộng ao.

 



III. Các Dụng Cụ Trong Lao Động - Sản Xuất

1. Dụng cụ lao động - sản xuất

Người Mạ và K'Ho – cư dân bản địa gắn bó với nương rẫy – đã sáng tạo dụng cụ mộc mạc nhưng hiệu quả.

Mơng ra mùr/Vlồng ra mùr 
Thông tin hiện vật
Gậy chọc lỗ là công cụ canh tác truyền thống của dân tộc Mạ tại Lâm Đồng. Người Mạ xưa kia có lối sống du canh, du cư nên công cụ lao động sản xuất của họ thường rất thô sơ. Trong đó, Gậy chọc lỗ là dụng cụ dùng để tra trỉa các loại hạt giống trên rẫy.
Gậy chọc lỗ tra hạt là một thân gỗ nhỏ hơn cổ tay có độ dài từ 2 – 3m, một đầu vót nhọn. Người Mạ thường chọn loài cây mọc thẳng, cứng và chắcmọc ở đầu nguồn các con suối đá. Họ thường chặt cây mới chết khô mang về đẽo bỏ phần ngoài vỏ và chỉ lấy phần lõi cây, gọt đều, vót trơn.Khi đẽo gậy, họ đẽo từ đầu to đến đầu nhỏ, đầu to gọt nhọn để chọc lỗ, ở phần ngọn đẽo tròn có tác dụng giữ cho gậy không bị chệch hướng khi chọc lỗ.
Trước khi vào rừng tìm cây làm gậy chọc lỗ tra hạt, người Mạ thường làm một lễ cúng. Lễ vật gồm có một con gà và một choé rượu cần. Khi đã chọn được cây như ý muốn, họ cũng cúng một con gà, một chóe rượu.Chủ lễ đổ rượu pha huyết gà vào gốc cây và đọc lời khấn xin phép thần rừng, thần núi. Họ cầu xin khi chặt cây, cây không đè người, rìu, xà gạc đốn cây không văng đụng người.
Mỗi khi đến mùa tra trỉa hạt giống, mọi gia đình trong buôn lại tiến hành làm lễ cúng tra trỉa. Chủ nhà bày sẵn choé rượu cúng ở gian khách. Các loại hạt giống  đựng trong cái nia, các dụng cụ lao động khác cùng những cây gậy chọc lỗ tra hạt được đặt cạnh lễ vật cúng, thường là con gà, hay con heo nhỏ. Chủ nhà ngồi bên nia hạt giống, tay cầm bát đựng rượu hòa với huyết con vật cúng, khấn cầu thần linh phù hộ cho cây cối tươi tốt, không bị sâu bệnh, không bị thú rừng phá hoại, mang lại một mùa bội thu… Khấn xong, chủ nhà tưới rượu pha huyết lên các cây gậy chọc lỗ tra hạt và các loại hạt giống.
Người Mạ thường “đổi công” giữa các gia đình khi làm nương rẫy. Những gia đình ít người thì đổi công cùng những gia đình khác,để sau khi tra trỉa xong phần rẫy nhà mình thì sẽ qua làm ở phần rẫy nhà người khác, cứ như thế diễn ra liên tục cho đến khi kết thúc mùa tra trỉa. Khi tra trỉa hạt giống, từng cặp nam nữ đi cùng nhau, Đàn ông đi trước hai tay cầm hai chiếc Gậy chọc các lỗ đều đặn và nhanh chóng. Đàn bà đi sau nhanh tay bốc hạt giống tra vào các lỗ và dùng chân gạt đất lại. Khoảng cách giữa các lỗ tra hạt phụ thuộc vào độ màu mỡ của đất. Ưu điểm của việc chọc lỗ tra hạt là hạt giống không vương vãi gây hao tốn. Khi mùa tra trỉa kết thúc, Gậy chọc lỗ thường được chủ nhà cất trên gác bếp để bảo quản tránh mối mọt.
Ngày nay, đồng bào Mạ ở các buôn làng đã chuyển sang sử dụng công cụ, máy móc hiện đại để gieo trồng, thay thế các công cụ lao động thô sơ truyền thống. Tuy nhiên với người Tây Nguyên nói chung và người Mạ nói riêng, những công cụ tra trỉa thô sơ như Gậy chọc lỗ tra hạt vẫn là dấu ấn đậm nét trong tập quán canh tác của đồng bào.
 

Trong sản xuất canh tác nông nghiệp, người Mạ có cách tính nông lịch riêng dựa vào chu kỳ của thời tiết được tích lũy kinh nghiệm nhiều năm và truyền dạy qua nhiều thế hệ. Mùa mưa là mùa để canh tác (từ tháng 4 đến tháng 10 âm lịch) và người Mạ chỉ bắt đầu trỉa hạt khi biết thời tiết sẽ có mưa nhỏ để tránh lượng nước mưa làm trôi hạt giống.
Char ya 
Thông tin hiện vật
DỤNG CỤ KẸP TRANH

– Chất liệu: Tre. .
– Kỹ thuật chế tác: Thủ công.
Nội dung hiện vật 
Dụng cụ kẹp tranh dùng để giữ lá tranh khi đan những tấm tranh lợp mái nhà sàn. Dụng cụ được làm từ một ống lồ ô có kích thước dài khoảng từ 45 – 50cm, có 3 – 4 đoạn lồ ô vót nhọn tạo thành 2 thanh kẹp, đầu 2 thanh kẹp vót nhọn để giữ chặt lá tranh và dùng dây mây cột lại thành từng tấm để lợp mái nhà.
Ngôi nhà truyền thống của người Mạ là nhà sàn dài, chất liệu chủ yếu là tre, nứa, lồ ô, hai mái lợp bằng lá mây, hoặc lá dừa rừng, cỏ tranh, những loại  sẵn có trong vùng người Mạ. Lá lợp nhà được kết thành từng tấm lớn, khi dời nhà sẽ được dỡ ra và cuộn lại để mang theo



- Sáh dòng/pru, Nơr dạ, Sớ crú, Sáh Jrộp, Sa vài (các loại gùi):

Sáh dòng/pru : chỉ gùi đeo lưng, thường dùng trong lao động như đi rẫy, đi rừng
Nơr dạ: là một loại gùi lớn của người Mạ
Sớ crú: Có 2 dây đeo bằng mấy hoặc vỏ cây rừng để mang sau lưng
Sáh Jrộp: Tên gọi chung của các loại gùi có nắp , jrộp : nghĩa là nắp.
Dùng để đựng đồ dùng như quần áo, chăn mềm và để ở phòng ngủ
Nơr jrộp

- Nơr jrộp: Được đan rất kì công, theo phong tục của người Mạ các dịp lễ như lễ đặt tên hoặc đối với cô gái đến tuổi lập gia đình sẽ để những vật hứa hôn trong chiếc gùi rồi mang sang cho nhà trai. Riêng chàng trai tròn 16 tuổi sẽ được học đan lát để chứng tỏ độ trưởng thành của mình và là quà cưới đặc biệt dành cho vợ Hoặc dùng để đàn ông đeo mang đi rừng nhiều ngày
 

Sa vài: Cái gùi – dùng đựng đồ, đi rẫy ngày nay phổ biến dùng để đi hái chè.
  • Để ra những thành phẩm trên họ thường chọn những cây tre có độ tuổi từ 3 năm trở lên, vì nếu tre non thì rất giòn, dễ gãy và chỉ chặt vào những ngày cuối tháng không có trăng, bởi vì cây tre đầu tháng chứa nhiều nước nên mất nhiều thời gian khi sấy và dễ bị mọt. Mây thì chỉ lấy dây già, leo trên cây cao, có màu vàng hoặc xanh để đảm bảo độ dẻo. Đồng thời những cây mây, tre phải thẳng đều và dài thì mới cho ra sợi nan suôn mượt, để khi đan không phải nối nhiều đoạn.
  • Có 4 bước để tạo ra một cái gùi : tạo khung, đan thân, làm miẹng gùi, làm dây đeo.
mong dra
Mơng dra : cây gậy chống, dùng cho đi leo rẫy, gùi nặng quá có thể dùng gậy chống phía sau để trợ lực.
Yar/yer dàl 
XÀ GẠC NGHI LỄ
– Chất liệu: Sắt, tre.
– Kỹ thuật chế tác: Thủ công.
Thông tin hiện vật
Xà gạc nghi lễ là vật dụng không thể thiếu trong các nghi lễ hiến sinh mang đậm dấu ấn tâm linh của đồng bào dân tộc Cơ Ho ở Lâm Đồng. Xà gạc nghi lễ gồm có 2 phần: cán và lưỡi. Cán chọn từ một đoạn gốc tre cong. Lưỡi bằng sắt, một cạnh mài sắc, phía mũi rộng bản hơn phần gần chuôi và chẻ thành hai mũi nhọn.
Các nghi lễ hiến sinh, như nghi lễ đâm trâu trong lễ mừng lúa mới, lễ cầu mùa… là một trong những nét văn hóa truyền thống mà cộng đồng người Cơ Ho  còn lưu giữ trong sinh hoạt lễ hội. Qua đó thể hiện lòng tôn kính đối với Giàng (Trời). Người dân cảm tạ Giàng đã phù hộ cho họ một mùa rẫy bội thu, cầu mong Giàng sẽ mang đến ấm no và mọi điều tốt đẹp. Đây làsinh hoạt văn hoá dân gian nổi bật, mang tính tổng hợp cao, thể hiện rõ yếu tố cộng đồng, quan niệm về mối quan hệ mật thiết giữa con người với thần linh và thiên nhiên. Trong các nghi lễ hiến sinh, thầy cúng thường lấy máu của con vật hiến sinh bôi vào Xà gạc nghi lễ và các vật linh thiêng khác để mời Giàng cùng các thần linh về dự hội.
Sau khi nghi lễ kết thúc, Xà gạc nghi lễ được đặt trang trọng lên bàn thờ, tuyệt đối không được dùng vào bất cứ việc gì khác. Xà gạc nghi lễ được lưu giữ cẩn thận, truyền từ đời này sang đời khác như một báu vật của dòng tộc.


 
- Xà gạc là vật dụng sinh hoạt rất phổ biến, gần gũi, gắn bó trong đời sống hàng ngày của các dân tộc thiểu số ởLâm Đồng. Xà gạc giúp họ hạ gỗ dựng nhà, phát rẫy làm nương, dọn đường ra suối,phát cây rừng mở lối đi, giúp họ chống lại thú dữ, là vũ khí sát cánh cùng đồng bào chiến đấu đánh đuổi kẻ thù bảo vệ buôn làng, cộng đồng.
Xà gạc gồm có hai phần: lưỡi vàcán. Lưỡi Xà gạc được rèn bằng sắt, có hình chữ nhật, thường rộng từ 4-5cm, dài 25-30cm. Cán Xà gạc được làm từ phần gốc của cây tre già, có dáng cong như móc câu.
Với đàn ông K'Ho, Xà gạc như một người bạn thân thiết, một vật dụng bất ly thân từ lúc trưởng thành cho đến khi về bên kia thế giới. Trong lễ đặt tên của một cậu bé K'Ho, bao giờ gia đình cũng phải chuẩn bị trước một cây Xà gạc chưa có chủ nhân để làm vật thiêng cho cậu bé chạm tay vào. Khi cậu bé đến tuổi trưởng thành, người bố sẽ dùng chính chiếc Xà gạc ấy đặt lên vai con trai với ý nghĩa gửi gắm toàn bộ những ước mơ, khát vọng mà đời trước chưa hoàn thành để thế hệ sau tiếp bước. Chính vì thế mà đàn ông K'Ho luôn xem chiếc Xà gạc được trao truyền là vật quý báu, biểu hiện lòng kiêu hãnh và bản lĩnh của mình.
Xà gạc còn được dùng như một đơn vị ước lượng chiều dài quãng đường. Xưa kia, khi đi rẫy hoặc săn bắt, phải băng qua những cánh rừng, họ thường vắt Xà gạc lên vai, đến khi mỏi họ lại chuyển sang vai bên kia. Mỗi lần chuyển xà gạt từ vai này sang vai kia, họ gọi là “một cây Xà gạc”, tương đương thời gian đi bộ khoảng từ 2 đến 3 giờ.
 
Yer/yar (xà gạc sinh hoạt) 
XÀ GẠC
– Chất liệu: Sắt, tre.
– Kỹ thuật chế tác: Thủ công.
Thông tin hiện vật
Xà gạc là vật dụng sinh hoạt rất phổ biến, gần gũi, gắn bó trong đời sống hàng ngày của các dân tộc thiểu số ởLâm Đồng. Xà gạc giúp họ hạ gỗ dựng nhà, phát rẫy làm nương, dọn đường ra suối,phát cây rừng mở lối đi, giúp họ chống lại thú dữ, là vũ khí sát cánh cùng đồng bào chiến đấu đánh đuổi kẻ thù bảo vệ buôn làng, cộng đồng.
Xà gạc gồm có hai phần: lưỡi vàcán. Lưỡi Xà gạc được rèn bằng sắt, có hình chữ nhật, thường rộng từ 4-5cm, dài 25-30cm. Cán Xà gạc được làm từ phần gốc của cây tre già, có dáng cong như móc câu.
Với đàn ông Cơ Ho, Xà gạc như một người bạn thân thiết, một vật dụng bất ly thân từ lúc trưởng thành cho đến khi về bên kia thế giới. Trong lễ đặt tên của một cậu bé Cơ Ho, bao giờ gia đình cũng phải chuẩn bị trước một cây Xà gạc chưa có chủ nhân để làm vật thiêng cho cậu bé chạm tay vào. Khi cậu bé đến tuổi trưởng thành, người bố sẽ dùng chính chiếc Xà gạc ấy đặt lên vai con trai với ý nghĩa gửi gắm toàn bộ những ước mơ, khát vọng mà đời trước chưa hoàn thành để thế hệ sau tiếp bước. Chính vì thế mà đàn ông Cơ Ho luôn xem chiếc Xà gạc được trao truyền là vật quý báu, biểu hiện lòng kiêu hãnh và bản lĩnh của mình.
Xà gạc còn được dùng như một đơn vị ước lượng chiều dài quãng đường. Xưa kia, khi đi rẫy hoặc săn bắt, phải băng qua những cánh rừng, họ thường vắt Xà gạc lên vai, đến khi mỏi họ lại chuyển sang vai bên kia. Mỗi lần chuyển xà gạt từ vai này sang vai kia, họ gọi là “một cây Xà gạc”, tương đương thời gian đi bộ khoảng từ 2 đến 3 giờ.

 
-
 
Cao dị còi : Xà Bách
Xà bách: Chất liệu: Sắt, tre.
Kỹ thuật chế tác: Thủ công.
Thông tin hiện vật
Xà bách là công cụ lao động của nhiều đồng bào Tây Nguyên, dùng trong sản xuất nông nghiệp, như làm cỏ, xới đất, trồng tỉa…
Đây là Xà bách cán ngắn, chiều dài khoảng 40cm, gồm có 2 phần: lưỡi và cán. Phần lưỡi xà bách làm bằng sắt, hình tứ giác, một cạnh được mài sắc, một cạnh có chuôi tra cán. Phần cán làm từ một đoạn gốc nứa già, được tra chắc chắn vào chuôi và tạo thành một góc gần vuông.
Theo kinh nghiệm của người Cơ Ho, Xà bách cán ngắn khi sử dụng sẽ không phạm phải cây trồng, rất thuận tiện trong việc làm cỏ, chăm sóc cây trồng, phù hợp với việc trồng trọt ở những địa hình có độ dốc cao.
 
 
Pểr cóh còi (liềm cắt lúa);
Pểr tết: dao nhỏ
Đây là công cụ để cắt gọt, tỉa, vót nan đan gùi, rổ, nong nia, bồ, cót chứa lúa, đan những hình tượng hoa văn bằng lát tre, song mây trang trí trên nóc nhà rông, trên cây nêu, cột lễ. 
Đối với một số tộc người, con dao nhỏ vừa là vật hữu dụng, vừa là “món trang sức” thể hiện nam tính. Đàn ông dân tộc Mạ, K'Ho thường giắt con dao nhỏ nhắn trên búi tóc. Đàn ông dân tộc M’Nông nhét nó vào lưng khố, ngay phía trước rốn. Trong khi đó, ở các tộc người Bắc Tây Nguyên như: Bahnar, Xê Đăng, Jrai, con dao này thường có cán dài, lưỡi dài. Khi thao tác, cán dao thường kẹp vào mạn sườn, giữ chặt bằng cùi chỏ. Loại dụng cụ này được bà con để nơi quy định trong nhà hoặc bỏ vào trong vỏ bao để đeo bên hông. Dao có vỏ bao vừa đẹp mắt, vừa phòng vệ khi đi vào rừng hay những nơi không an toàn. Mỗi con dao nhỏ có giá trị bằng một con gà to. Đàn ông ai cũng phải có một vài con dao nhỏ cất giữ bên mình.
Pểr mự: dao
DAO
– Chất liệu: Sắt, Gỗ.
– Kỹ thuật chế tác: Thủ công.
Thông tin hiện vật
Người Chu Ru ở Lâm Đồng sử dụng dao khá phổ biến trong sinh hoạt hàng ngày. Dao có 2 phần: phần cán hơi cong bằng gỗ và phần lưỡi thẳng bằng sắt.
Người Chu Ru sử dụng dao rất khéo léo và thành thạo. Khi cần thái, họ dùng hai chân để giữ cán dao, hai tay cầm vật cần thái đưa vào lưỡi dao để thái. Ngoài ra, người Chu Ru còn sử dụng một loại dao có vỏ bọc làm vũ khí khi đi săn bắt thú rừng.
 

Người Chu Ru ở Lâm Đồng sử dụng dao khá phổ biến trong sinh hoạt hàng ngày. Dao có 2 phần: phần cán hơi cong bằng gỗ và phần lưỡi thẳng bằng sắt.
Người Chu Ru sử dụng dao rất khéo léo và thành thạo. Khi cần thái, họ dùng hai chân để giữ cán dao, hai tay cầm vật cần thái đưa vào lưỡi dao để thái. Ngoài ra, người Chu Ru còn sử dụng một loại dao có vỏ bọc làm vũ khí khi đi săn bắt thú rừng.

Cơr sùng: rìu to

 

Cơr gúh: rìu nhỏ

Chất liệu :Cán rìu thường chọn gỗ rừng cứng, dẻo, người Mạ hay chọn đoạn gỗ có độ cong tự nhiên để khi cầm tay sẽ thuận lợi, vừa sức
Lưỡi rìu : làm bằng sắt hoặc thép do người Mạ tự rèn, thường mỏng, dẹt, mài bén 1 cạnh
Cách làm: Gỗ phơi khô, đầu cán khoét lỗ hoặc chẻ để gắn lưỡi rìu, cần phải khéo léo tỉ mỉ để không bị tuột, có thể dùng dây mây hoặc dây rừng quấn thêm quanh chỗ nối để tăng độ chắc chắn

  • Nhỏ gọn, dễ mang theo để chặt củi nhỏ, đẽo gọt tre gỗ, mang theo những chuyến đi rừng ngắn ngày

Đời sống của người Mạ luôn gắn với núi rừng, nương rẫy. Để đáp ứng nhu cầu đời sống, sản xuất, các nghề thủ công truyền thống ra đời, trong đó có nghề rèn. Ngày nay, các dụng cụ cần thiết phục vụ sản xuất đã phổ biến trên thị trường, nhưng nhiều nghệ nhân dân tộc Mạ ở Lâm Đồng vẫn giữ nghề truyền thống để truyền dạy cho các thế hệ.

Grẻ Rapu: mõ trâu

Mõ Trâu: "Trâu đeo mõ, chó leo thang, gà chạy vũ trang, lợn đào công sự" là câu nói từ xa xưa của dân tộc Việt Nam. Cái tên trâu mõ hay mõ trâu được sinh ra khi tập tục trâu bò được thả rông tự do để gặm cỏ ngoài đồng. Khi đó, người dân sẽ đeo cho chúng một chiếc mõ bằng gỗ hoặc tre.
Cấu tạo : Mõ được làm chủ yếu từ ống tre to hoặc gỗ đục rỗng ruột, dùng dây thừng buộc hai đầu để đeo vào cổ trâu, bò. Bên trong mõ treo 2 đến 3 gậy gõ nhỏ tạo ra âm thanh khi con vật di chuyển.
Tác dụng: Mõ trâu là vật gắn liền với nhiều dân tộc miền núi. Do tập quán chăn thả trâu, người dân đeo mõ vào cổ trâu để biết đường lần theo dấu mỗi khi trâu đi lạc. Khi trâu chuyển động, đi lại, 2 đoạn gỗ gõ đều đặn vào thành trong của mõ phát ra âm thanh nghe lách cách vui tai. Mõ trâu này chính là công cụ hữu hiệu khi đàn trâu đi lạc. Ngoài ra, trâu mõ còn được được ngự trị trong nhiều lĩnh vực văn thơ hội họa, tín ngưỡng người Việt Nam. Chiếc sừng trâu con cong cong tựa vầng trăng lưỡi liềm - biểu tượng của ngành nông nghiệp chúng ta.
Người ta còn có thể đoán trước tương lai của một năm dựa vào hình dạng trâu mõ đứng hay nằm, ngoảnh đầu ra cửa hay quay vào trong thời khắc giao thừa. Trang trí trâu mõ trong nhà ngoài giúp giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc còn đem lại ý nghĩa thịnh vượng, bền vững trong phong thủy. Trâu mang tính chất hiền lành, chất phác, bền bỉ và là con vật gắn với đất đai giúp con người thịnh vượng. Do đó tượng trâu mõ sẽ giúp gia chủ thu hút tiền tài, năng lượng, buôn bán đất đai thêm thuận lợi.

Clàng dar (chuông gió đuổi chim)

Chất liệu : làm hoàn toàn từ ống tre, nứa
Công dụng :Khi gió thổi sẽ phát ra tiếng kêu dùng chuông gió để bảo vệ mùa màng và cây trồng khỏi các loài chim phá hoại được làm bằng tre nứa.



2. Nghề rèn của dân tộc Mạ do đàn ông đảm nhận, bởi nghề này khá vất vả, nặng nhọc và cần có sự tỉ mỉ, kiên nhẫn. 

Ding núh: ống bễ thụt lửa lò rèn
Mơng chùr: cây thụt lửa


Hình dạng và kích thước: Trụ tròn; cao 70cm, đường kính ống 18cm.
Óng bễ thụt là dụng cụ quan trọng trong nghề rèn bao đời nay của dân tộc Mạ ở Lâm Đồng. Nghề thủ công truyền thống này đã tạo ra các công cụ như xà gạc, xà bách, rìu…, phục vụ lao động sản xuất, các loại vũ khí như dao, lao…, dùng để đi săn bắt thú rừng và một số công cụ phục vụ cho đời sống tâm linh như xà gạc nghi lễ, lao nghi lễ… Trong lò rèn của người Mạ, ngoài dụng cụ chủ yếu là Ống bễ thụt để thổi lửa, còn có đe, các cỡ búa, kìm…
Ống bễ thụt này được chế tạo bằng tre, gồm 2 ống thụt với kích thước cao khoảng 70cm, đường kính ống khoảng 18cm, dùng để đẩy hơi qua bể than, làm cho than bùng cháy, tạo sức nóng trong quá trình rèn. Khi rèn, thép được nung đỏ rất kỹ trước khi quai búa. Sắt nung càng đỏ thì càng mềm, dễ rèn, ít tốn công sức, nhưng cũng không được nung quá lâu vì sắt sẽ nóng chảy. Nghề rèn đòi hỏi sức khỏe dẻo dai, khả năng quan sát và khả năng học hỏi, tích lũy kinh nghiệm.

Nghề rèn của đồng bào Mạ không chỉ góp phần thiết thực vào đời sống lao động sản xuất, mà còn duy trì nét văn hóa truyền thống độc đáo của dân tộc mình.
 

Dơm ra còl mút (nung sắt đập lặp tránh biến dạng);
Vòng srong pểr/yer

- Để tôi luyện dao không bị non thì nung thanh sắt qua lửa xong ta lại rút thanh sát đặt vào Ra còl lớh sa núh ra đập để cacbon ở trong sắt thép không bị biến dạng để giữ độ cứng của lưỡi dao. Công đoạn này lặp đi lặp lại nhiều lần cho đến khi sẳn phẩm thành hình,cho dụng cụ vào Vòng srong pểr/yer là hoàn thành quá trình rèn.

3. Nghề dệt của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam không có một điểm khởi nguồn duy nhất mà có lịch sử phát triển lâu đời, gắn liền với quá trình hình thành và sinh tồn của cộng đồng, phục vụ nhu cầu thiết yếu về may mặc và vật dụng sinh hoạt hàng ngày.

Tểr plai đểr : dụng cụ tách, bóc quả bông
Tểr plai đểr : dụng cụ tách, bóc quả bông là một trong những dụng cụ được sử dụng trong quá trình dệt vải của người Mạ, vừa dùng để tách hạt bông vừa làm cho bông tơi ra trước khi xe bông thành sợi
Dụng cụ cán bông được làm bằng gỗ khá công phu, gồm phần dưới có chân đế, phần trên có bộ phận tay quay, lô cán trên hai trục quay có cấu tạo rãnh xoắn ăn khớp với nhau có tác dụng tách hạt ra khỏi khối bông và làm bông tơi mịn.
 
Panh plai đểr: cây bật bông
Panh plai đểr: cây bật bông ​​​​​là một công cụ truyền thống gồm một sợi dây căng trên một khung gỗ, được dùng để làm tơi sợi bông thô sau khi thu hoạch từ quả cây bông Người thợ sẽ căng dây lên đống bông và gõ vào dây, tạo ra rung động làm cho các xơ bông tơi ra, tách khỏi hạt và trở thành dạng sợi thô, sẵn sàng cho quá trình xử lýtiếp theo để sản xuất sợi dệt.  Người Mạ là một trong 3 dân tộc bản địa của Lâm Đồng, sống tập trung chủ yếu ở các huyện Bảo Lâm, Đạ Tẻh, Cát Tiên. Với cuộc sống tự cung tự cấp trước đây, ngoài kinh tế nương rẫy và săn bắt, hái lượm, người Mạ còn có các nghề thủ công truyền thống, trongđó có nghề dệt thổ cẩm. Họ tự tạo ra các bộ trang phục cổ truyền của đàn ông là áo và khố, của phụ nữ là áo và váy dài qua gối.
Dụng cụ cán bông mà một trong những dụng cụ được sử dụng trong quá trình dệt vải của người Mạ, vừa dùng để tách hạt bông vừa làm cho bông tơi ra trước khi xe bông thành sợi. Bông là nguyên liệu chính để dệt thổ cẩm.Cây bông thường được trồng trên rẫy cũ (rẫy đã trải qua một mùa lúa). Bông sau khi thu hoạch được đem phơi nắng cho khô để bông có độ trắng rồi mới đem đi cán.Trước khi cán bông, họ dùng dụng cụ bật bông để tách hạt ra khỏi bông.
Dụng cụ cán bông được làm bằng gỗ khá công phu, gồm phần dưới có chân đế, phần trên có bộ phận tay quay, lô cán trên hai trục quay có cấu tạo rãnh xoắn ăn khớp với nhau có tác dụng tách hạt ra khỏi khối bông và làm bông tơi mịn.
 
Dói vrài/hoài vrài : Khung quay sợi
Theo truyền thống của người K'Ho ở Lâm Đồng, phụ nữ phải chăm lo cái mặc cho cả gia đình. Bởi vậy, các bé gái K'Ho từ nhỏ đã được các bà, các mẹ dạy dệt vải, may trang phục. Đa số phụ nữ K'Ho biết dệt vải, tự may trang phục cho gia đình và đây cũng là một trong những tiêu chí mà những người đàn ông K'Ho đặt ra mỗi khi chọn vợ.
Nói đến nghề dệt thổ cẩm thì không thể không nói đến Khung quay sợi hay còn gọi là Xa quay chỉ. Đây là một dụng cụ tinh tế, hiệu quả trong công đoạn biến bông vải thành sợi mà không bị rối, đòi hỏi sự tỉ mỉ và tốn khá nhiều thời gian.
Khung quay sợi có cấu tạo gồm hai phần: phần đế và phần thân. Riêng phần thân có trục quay, bánh xe được cuộn bằng các vòng nhỏ xếp khít nhau thành hình tròn có đường kính khoảng 40cm, tay quay làm bằng gỗ hoặc xương trâu dài 10cm, rọi xe chỉ làm bằng xương. Khung quay sợi có kích thước cao khoảng 50cm, dài 80cm.
Khung quay sợi không chỉ là công cụ lao động thông thường mà còn là tài sản quý giá, gắn bó với cuộc sống  của mỗi gia đình người K'Ho. Người ta luôn giữ gìn khung quay sợi như báu vật, tránh làm mất mác, hư hỏng vì “cỗ máy” này không phải ai cũng làm được.
 
Khơng vrài (guồng cuốn sợi nan tre đánh suốt phân loại).

Khơng vrài: guồng cuốn sợi thường được làm bằng gỗ hoặc tre, với các bộ phận như trục quay, bánh xe. 
Gồm một trục gỗ có các nan tre xếp theo hình cánh quạt giấy hoặc các bộ phận khác để cuốn chỉ. 
Cuộn sợi: Dùng để cuốn các sợi chỉ nhỏ thành những cuộn chỉ lớn hơn, tạo sự chắc chắn và đồng đều cho sợi chỉ để dệt. 
Đánh suốt chỉ: Giúp đánh suốt chỉ, tạo ra các suốt bé (phiên lót) và suốt to (phiến lót nhau khên húk) để chuẩn bị cho quá trình dệt. 
Phân loại sợi: Guồng có thể được sử dụng để đánh suốt chỉ to thành các cuộn chỉ có kích thước

IV. Nhạc Cụ – Tiếng Nói Linh Hồn Tây Nguyên

Bộ sưu tập nhạc cụ là "linh hồn" của người Mạ và K'Ho, gắn với tín ngưỡng Yàng.

1.Trống (Gơr): được làm từ chất Da voi , da trâu, da bò
Đặc điểm :Trống da voi có âm thanh dày dặn, trầm ấm và vang xa nhờ chất liệu da voi rất dày, bền và có độ đàn hồi cao.
Trống da trâu thì dày hơn da bò, da cứng và bền bỉ nhưng tiếng trống hơi lì hơn, ít vang hơn da voi, trong khi trống da bò mịn ,có tiếng trống trong, vang và thanh hơn nhưng độ bền thấp hơn da voi và trâu. 
 

Trống da bò
da voi
Trống da voi: Được xem là vua của các loại trống

da trau
Trống da trâu từ văn minh lúa nước, thân gỗ hai mặt da trâu (đực/cái hài hòa âm-dương), đường kính 1-1,5m, bọc bởi già làng, đánh khoan thai/dồn dập lễ hội.

- Chiếc trống H’gơr (Trống cái) bắt nguồn từ xa xưa, gắn liền với nền văn minh lúa nước và các nghi lễ quan trọng trong văn hóa Việt Nam, bao gồm cả các dân tộc thiểu số như Ê Đê.  
Sử dụng da trâu để làm mặt trống, bởi lẽ khi dùng da trâu làm căng mặt trống sẽ làm cho trống có độ âm vang và rất bền bỉ.
Chiếc trống H’gơr (Trống cái) của người Ê đê, được làm từ một thân cây gỗ tự nhiên, với hai mặt phủ bằng da trâu. Trống được đặt cố định trên ghế K’pan trong gian khách của ngôi nhà sàn dài và thường sử dụng kết hợp với dàn chiêng.
Dân gian có câu “Trâu chết để da, người ta chết để tiếng”, sau khi trâu chết, người ta lột da để lợp trống, da tốt thì trống bền, khi đánh lên rất kêu, da xấu thì trống nhanh hỏng, tiếng không vang.
Khi làm thịt trâu, người ta tách nhẹ nhàng da trâu để khỏi bị rách, róc hết thịt dính trên da, ngâm với dung dịch nước vôi, sau đó phơi nắng cho da có độ dai nhất định, không đươc phơi khô quá da sẽ bị cứng không uốn được. Nếu trước đó đã có da của con trâu đực bọc một đầu trống rồi, thì nhất định ở lễ hội sau người ta sẽ làm thịt con trâu cái để lấy da bọc đầu trống còn lạiBọc trống bằng một loại da trâu cũng được, nhưng tiếng kêu của nó không thanh, không vang bằng trống được bọc da hai con trâu khác nhau. Nếu là trâu cái thì người ta sẽ chọn con nào chưa qua sinh đẻ, vì loại trâu này da sẽ tốt hơn.
Trống hai da trâu là sự kết hợp hài hòa giữa âm-dương, đất-trời, thường có đường kính từ 1 đến 1,5 mét tùy thuộc vào điều kiện của từng gia đình mà kích thước chiếc trống sẽ khác nhau.
Gia đình nào khá giả thường sở hữu những chiếc trống có đường kính lớn, kèm theo chuông reo được gắn ở điểm đầu của trống.
Những người được tham gia bọc da trống phải là người biết đánh trống, thường là các già làng, trưởng bản. Người đánh trống phải là nam giới, mặc trang phục truyền thống Êđê, có đạo đức, nhân cách tốt và am hiểu về các tập tục của đồng bào mình. Tùy thuộc vào từng lễ hội mà tư thế và kiểu đánh trống sẽ khác nhau, đánh từng tiếng khoan thai hoặc dồn dập liên hồi…


2. Cồng chiêng: Có giả thuyết cho rằng văn hóa cồng chiêng bắt nguồn từ văn minh Đông Sơn, là nền văn hóa đồng thau xuất hiện tại Đông Nam Á. . Được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại ngày 25/11/2005
Cồng chiêng không do cư dân Tây Nguyên tự đúc ra mà xuất phát từ một sản phẩm hàng hoá (mua từ các nơi khác về) được nghệ nhân chỉnh sửa thành một nhạc cụ
Cồng chiêng gắn bó mật thiết với đời sống tín ngưỡng của người Tây Nguyên. Theo quan niệm của nhiều dân tộc Tây Nguyên, cồng chiêng là vật thiêng, là cầu nối giữa con người và thần linh (Yàng). Họ tin rằng mỗi cái cồng, chiếc chiêng đều có thần linh trú ngụ; trước khi sử dụng phải trải qua nhiều nghi lễ cúng tế khắt khe, và có những cấm kị tùy theo quan niệm mỗi dân tộc
Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trải rộng suốt 5 tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông, Lâm Đồng và chủ nhân của loại hình văn hóa đặc sắc này là cư dân các dân tộc Tây Nguyên: Bana, Xê-đăng, Hmông, Cơ-ho, Rơ-măm, Ê-đê... Cồng chiêng gắn bó mật thiết với cuộc sống của người Tây Nguyên, là tiếng nói của tâm linh, tâm hồn con người, để diễn tả niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống, trong lao động và sinh hoạt hàng ngày của họ.
Chất liệu: Cồng chiêng là loại nhạc khí bằng hợp kim đồng, có khi pha vàng, bạc hoặc đồng đen. Cồng là loại có núm, chiêng không núm. Nhạc cụ này có nhiều cỡ, đường kính từ 20cm đến 60cm, loại cực đại từ 90cm đến 120cm. Cồng chiêng có thể được dùng đơn lẻ hoặc dùng theo dàn, bộ từ 2 đến 12 hoặc 13 chiếc, thậm chí có nơi từ 18 đến 20 chiếc.
Cồng chiêng Tây Nguyên là loại nhạc cụ độc đáo, đặc sắc và đa dạng.
Cấu tạo: Các dàn cồng chiêng Tây Nguyên lấy thang bồi âm tự nhiên làm cơ sở để thiết lập thanh âm của riêng mình.Trong đó, mỗi biên chế của từng tộc người đều cấu tạo bởi thang 3 âm, 5 âm hay 6 âm cơ bản. Song, cồng chiêng vốn là nhạc cụ đa âm, bên cạnh âm cơ bản bao giờ cũng vang kèm một vài âm phụ khác. Thành thử trên thực tế, một dàn 6 chiêng sẽ cho ta tối thiểu 12 âm hay nhiều hơn nữa. Điều đó lý giải tại sao âm sắc cồng chiêng nghe thật đầy đặn và có chiều sâu.
Ý nghĩa : Theo quan niệm của người Tây Nguyên, đằng sau mỗi chiếc cồng, chiêng đều ẩn chứa một vị thần.Cồng chiêng càng cổ thì quyền lực của vị thần càng cao.Cồng chiêng còn là tài sản quý giá, biểu tượng cho quyền lực và sự giàu có. Đã có thời một chiếc chiêng giá trị bằng hai con voi hoặc 20 con trâu.
Cồng chiêng đã đi vào sử thi Tây Nguyên như để khẳng định tính trường tồn của loại nhạc cụ này: “Hãy đánh những chiêng âm thanh nhất, những chiêng kêu trầm nhất. Đánh nhè nhẹ cho gió đưa xuống đất.Đánh cho tiếng chiêng vang xa khắp xứ. Đánh cho tiếng chiêng luồn qua sàn lan đi xa.
Trên cơ sở đó, cồng chiêng Tây Nguyên ẩn chứa nhiều giá trị sâu sắc, có thể coi là hình ảnh đại diện cho một vùng đất anh hùng, là biểu trưng cho cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên và là một màu sắc độc đáo trong bức tranh văn hóa Việt Nam đa đang, đậm đà bản sắc. Giá trị của Cồng chiêng Tây Nguyên thể hiện qua bản chất nghệ thuật mà nó mang lại.
Có hai phương pháp chỉnh sửa mà người nghệ nhân ở Tây Nguyên sử dụng: Gõ, gò theo hình vảy tê tê và theo hình lượn sóng. Do vậy, kỹ thuật gõ, gò theo đường tròn trên những điểm khác nhau quan tâm điểm của từng chiếc chiêng là một phát hiện vật lý đúng đắn, khoa học (mặc dù trình độ phát triển xã hội của người Tây Nguyên thuở xưa chưa biết đến vật lý học). Đây là sáng tạo lớn của cư dân các dân tộc ít người Tây Nguyên.
Để đáp ứng các yêu cầu thể hiện bằng âm nhạc khác nhau, các tộc người Tây Nguyên đã lựa chọn nhiều biên chế dàn cồng chiêng khác nhau.
 

Ching (chiêng 6: mẹ, rdơm, ndờn, thơ, thòng, thê) vỗ lòng bàn tay;
Gòng (cồng núm) dùi gõ nhịp trầm. Ý nghĩa: thần trú ngụ, biểu tượng giàu có (bằng 2 voi/20 trâu), sử thi "đánh chiêng vang xa".
Ding dier (Đàn ống tre Goong cla) của nghệ nhân K’Rỗi (Bảo Lộc), tre lồ ô 46cm khoét rãnh 6 dây âm (Vàng-Me đến Thê), gọn nhẹ lao động/hội rượu, thu nhỏ bộ chiêng.

(Đàn ống tre Goong cla): Là một nhạc cụ truyền thống độc đáo của đồng bào Mạ ở Lâm Đồng, gắn liền với đời sống văn hóa và tinh thần của cộng đồng. Nhạc cụ này được nghệ nhân K’Rỗi, người Mạ sinh sống tại Phường 2, thành phố Bảo Lộc, chế tác tinh xảo từ một ống tre lồ ô già dài khoảng 46 cm.
Chất liệu : Theo kinh nghiệm dân gian, tre càng già thì âm thanh càng vang xa, sắc gọn, mang theo hơi thở của núi rừng Tây Nguyên.
Cách làm : Cấu tạo của Goong cla gồm một lóng tre già, hai đầu tự nhiên bịt kín, ở giữa được khoét một rãnh thoát âm. Hai bên rãnh, nghệ nhân tách cật tre thành 6 sợi dây từ lớn đến nhỏ, từ dày đến mỏng, tương ứng với 6 cung bậc âm thanh: Vàng (Me), Rđơm, Dờn, Thòng, Thơ và Thê.. Đây cũng chính là tên gọi quen thuộc trong bộ chiêng droòngkhèn mboăt
Công dụng: Với tính gọn nhẹ và dễ mang theo, Goong cla đồng hành cùng người Mạ trong nhiều hoàn cảnh: từ những buổi lên rẫy lao động, khi nghỉ ngơi gảy đàn giải khuây, đến những đêm hội uống rượu cần trong gia đình. Âm sắc của Goong cla trầm ấm, vang vọng, được ví như sự thu nhỏ của bộ chiêng 6 chiếc, nhưng chỉ cần một nghệ nhân biểu diễn thay vì cả một nhóm người. Ở đó, âm điệu của đàn không chỉ là tiếng nhạc, mà còn là sợi dây kết nối con người với nhau, phản ánh đời sống tinh thần phong phú và đậm chất nhân văn của đồng bào Mạ.

Đàn đá ( các dân tộc Tây Nguyên, ở Việt Nam gọi là Goong lu, tức “ đá kêu như tiếng cồng ) là loại nhạc cụ thuộc bộ gõ lâu đời tại Việt Nam và là nhạc cụ cổ sơ nhất của loài người.

- Đàn đá (Goong lu): Vào tháng 2/1949, một nhóm thợ làm đường ở khu vực Tây Nguyên đã phát luhiện chiếc Đàn đá đầu tiên tại làng Ndut Lieng Krak, tỉnh Đắk Lắk, có niên đại từ ba đến năm nghìn năm. Bộ đàn đá thứ hai được phát hiện năm 1956, trong chiến tranh chống Mỹ và một đại úy Mỹ mang về trưng bày ở New York.
Năm 1980, Georges Condominas lại phát hiện bộ đàn đá thứ ba có 6 thanh tại buôn Bù Đơ thuộc xã Lộc Bắc, huyện Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng. Đây là bộ đàn do dòng họ Ksiêng (người Mạ) lưu giữ qua 7 đời.
Kích thước: Đàn đá này là một tập hợp gồm 11 phiến đá lớn gần như còn nguyên vẹn, đứng gần nhau theo phương thẳng đứng. Chúng có kích thước khác nhau, dài từ 65 đến 110cm và có dấu hiệu bị đục đẽo.
Chất liệu : Gọi là đàn đá, hiển nhiên bộ phận tạo thanh âm chính là đá. Những phiến đá này tạo ra những âm thanh trầm bổng khi gõ là do mỗi phiến đá có độ dài ngắn dày mỏng 
Năm 2005, đàn đá được UNESCO xếp vào danh sách các nhạc cụ trong không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên và danh tiếng đàn đá được lan truyền
Đàn có âm sắc đặc trưng như tiếng và chạm của đá trong thiên nhiên. Đàn đá đá cũng là một nhà cụ được biết đến như một cầu nối giữa cõi âm và cõi dương của con người. Khi đánh đàn mỗi, người nghệ nhân sẽ sử dụng búa nhỏ để gõ vào mỗi thanh đá nhằm tạo ra những âm sắc và phải thật nhanh tay để các âm này được nối với nhau tạo sự liền mạch cho một làn điệu.

Bre/vuốt sáo tre

- Bre/vuốt sáo tre: Được làm bằng tre nứa dài khoảng 40 – 60cm
Đặc điểm : Thổi dọc,thường dùng trong lúc rảnh rỗi, trai gái tỏ tình gắn liền với đời sống inh hoạt hằng ngày

Trống cơm

- Trống cơm: Trống cơm đã xuất hiện ở Việt Nam từ thời nhà Lý, tức là từ thế kỷ X Ban đầu, trống cơm là một nhạc cụ của Chiêm Thành và được du nhập vào Việt Nam. Tên gọi "trống cơm" bắt nguồn từ việc người ta dùng cơm nghiền để bôi lên mặt trống, giúp âm thanh trong và rõ hơn. 
Chất liệu: da trâu
Đặc điểm : Trống cơm có 2 mặt trống hình tròn bằng nhau, đường kính khoảng 18 – 20cm. Mặt trống được bịt bằng da trâu (thường là trâu đực thì sẽ tốt nhất về độ dai và bền). Trống cơm bao gồm một mặt trầm (gọi là mặt Thổ) và một mặt bổng (mặt Kim). Mặt Thổ được bưng bằng phần da lưng, mặt Kim dùng phần da nách.

Cuọc (tù và) 
TÙ VÀ
Chất liệu: Sừng trâu.
Màu sắc: Đen.
 Kỹ thuật chế tác: thủ công
Thông tin hiện vật
Tù và của người Mạ được làm bằng sừng trâu, chọn từ những chiếc sừng dài từ 20 – 60cm.Họ khoét một lỗ nhỏ ở mũi sừng để gắn lam phát âm. Khi thổi phải dùng một ngón tay bịt vào đầu nhỏ của chiếc sừng, tay còn lại áp vào đầu lớn của sừng để điều chỉnh. Tù và là một loại nhạc cụ có âm thanh định hình, âm không định hình này chỉ biến đổi về mặt âm sắc, không biến đổi về cao độ, điều này phụ thuộc vào sự điều chỉnh khéo léo của đôi bàn tay nghệ nhân.
Tù và thường được sử dụng trong những lễ hội có nghi lễ đâmtrâu. Tiếngtù và được cất lên đầu tiên, với người Mạ, âm thanh của tù và chínhlà lời thỉnh mời các Yàng, các thần linh về dự sự kiện trọng đại sắp diễn ra. Mặt khác, với tiếng to và vang xa, tù và tỏ ra hữu hiệu nhất trong việc báo hiệu với cộng đồng và các buôn làng lân cận về buổi lễ hội sắp tiến hành ở một địa điểm nào đó.
 

 

V. Trang Sức Và Gốm Sứ – Biểu Tượng Sắc Đẹp Và Tín Ngưỡng

1. Trang sức: trang sức của các dân tộc Tây Nguyên – như người Mạ, K'Ho, S’tiêng, Cơ Tu, và nhiều cộng đồng bản địa khác – không chỉ đơn thuần là vật trang trí mà còn là biểu tượng văn hóa, tín ngưỡng và bản sắc độc đáo. Được chế tác từ những chất liệu tự nhiên như đồng, bạc, hạt cườm, nanh thú, hay nhựa cây thông, mỗi món trang sức mang trong mình câu chuyện về sự gắn bó với núi rừng, tổ tiên, và các giá trị truyền thống của cộng đồng.
 

Chuỗi cườm
Chất liệu: Thủy tinh; Màu sắc: nhiều màu

- Chuỗi cườm (hạt nhỏ ba sợi xoắn) là một trong những món trang sức truyền thống của người phụ nữ Chu Ru ở Lâm Đồng. Vào những ngày tết hay lễ hội của buôn làng, các thiếu nữ thường kết hợp chuỗi cườm với các trang phục vàcác loại trang sức khác giúp họ trở nên xinh đẹp và lộng lẫy hơn.
Chuỗi cườm được làm bằng cách xâu những hạt cườm bằng thủy tinh màu thành chuỗi có chiều dài khác nhau phù hợp với từng người. Theo phong tục hôn nhân của người Chu Ru (chế độ mẫu hệ), người phụ nữ trước khi “bắt chồng” phải đáp ứng các lễ vật tùy theo yêu cầu của nhà trai, như nhẫn bạc, khăn, chuỗi cườm để nạp cho nhà trai.
Trang sức ngoài làm đẹp cho người phụ nữ, còn có vai trò quan trọng trong văn hóa, phong tục của người Chu Ru. Trong luật tục cưới hỏi, chuỗi cườm, nhẫn bạc… được xem là những kỷ vật trao đổi, cam kết, ghi nhớ, như một biểu tượng của lòng tin, sự thủy chung vợ chồng.
 
Cồng (vòng ống) từ Đông Sơn 2.500 năm, đồng quấn lò xo 9cmx12cm chóp cụt đeo chân/tay từ mắt cá đầu gối, phổ biến S'tiêng, Cơ Tu.

- Cồng - "Vòng ống" là một nét đẹp trong trang phục truyền thống của các dân tộc thiểu số ở Trường Sơn - Tây Nguyên, đặc biệt là các dân tộc như S'tiêng, Cơ Tu
Nguồn gốc : Vòng ống chân, vòng ống tay, khuyên tai hay nhẫn được chế tác từ nhiều chất liệu của người Việt cổ thời văn hóa Đông Sơn cách nay 2500-2000 năm
Hình dáng: Nhìn bên ngoài nó giống như hình chóp cụt, làm bằng đồng được quấn vòng tròn kiểu lò xo, đeo trên ống tay
Chất liệu :Chiếc vòng này nguyên là sợi dây đồng dài  có đường kính 9cm và chiều dài 12cm .
Đặc điểm : khi đeo thì có người khéo tay giúp quấn vòng tròn theo ống chân và ống tay. Phổ biến nhất là đeo ở ống chân, còn đeo ở tay thì tùy theo ý thích của từng người. Chiếc vòng chân thường dài hơn, phải từ mắt cá lên đến tận đầu gối. 

- Lục lạc đồng, vòng hở (Cồng) : Được người S’tiêng sử dụng có niên đại khoảng thế kỷ XV – XVII, có xuất xứ từ Nam Đông Dương, được các cộng đồng người Mạ, S’tiêng, M’nông sử dụng phổ biến.
Lềm(Vơr lềm) Lục lạc: có nhiều loại phong phú, có loại bằng bạc, đồng, có loại bằng gỗ với các hình dạng khác nhau, có loại tròn, hình trứng, hình cầu, có loại giống chiếc chuông hay cái loa
Lục lạc: thường được sử dụng trong các nghi lễ truyền thống như lễ đâm trâu, mừng lúa mới, cầu mưa hoặc xua đuổi tà ma. Ngoài ra còn được sử dụng trong trang trí lên các bộ trang phục khố, váy . Những chiếc lục lạc nhỏ bằng hạt đậu được gắn vào các đường diềm trên trang phục khố của người đàn ông và trên trang phục váy đeo ở hông của người nữ để tạo nét đẹp và âm thanh khi nhảy múa

Vòng cổ hạt cườm nanh thú của người Cơ Tu


Vòng cổ hạt cườm nanh thú: làm từ hạt cườm và nanh thú của người đồng bào Trường Sơn Tây Nguyên, đặc biệt là trang sức độc đáo của người dân tộc Cơ Tu
Đặc điểm :Vòng cổ có gắn nanh thú là một vật trang sức truyền thống của dân tộc Cơ Tu. Để làm đồ trang sức, xem chúng như vật hộ mệnh và là biểu tượng cho sự giàu có, tín nhiệm trong làng.
Trang sức Tây Nguyên không chỉ là vật trang trí mà còn là cầu nối giữa con người, thiên nhiên, và thế giới tâm linh. Mỗi chiếc vòng, dây cườm, hay lục lạc đều mang trong mình câu chuyện về lịch sử, tín ngưỡng, và sự sáng tạo của các dân tộc. Từ những nghi lễ cúng tế Yàng, lễ cưới, đến các vũ điệu truyền thống, trang sức góp phần làm nên bản sắc độc đáo của vùng đất cao nguyên.

2.Gốm sứ: Gốm sứ trong văn hóa các dân tộc Tây Nguyên – như người Mạ, K'Ho, Churu và các cộng đồng bản địa khác – không chỉ là những vật dụng thiết yếu trong đời sống mà còn là hiện thân của nghệ thuật, tín ngưỡng và sự kết nối sâu sắc với thiên nhiên. Được chế tác từ đất sét, nung thủ công qua những kỹ thuật truyền thống, mỗi chiếc nồi, chum, ché hay bát gốm đều mang trong mình câu chuyện về lịch sử, văn hóa và sự khéo léo của các nghệ nhân. Tại Khu Du Lịch Thác Đambri, bộ sưu tập gốm sứ tái hiện sống động di sản này, từ những sản phẩm mộc mạc phục vụ sinh hoạt đến những kiệt tác nghệ thuật giao thoa văn hóa với người Hoa và Chăm, mời gọi du khách khám phá vẻ đẹp trường tồn của vùng cao nguyên.

Choé gốm Cây Mai
Choé gốm Cây Mai

- Choé gốm Cây Mai :  Phát triển mạnh ở thế kỷ XX. Gốm Cây Mai là sản phẩm do cộng đồng thợ gốm di dân người Hoa tạo tác. Tên gọi gốm Cây Mai được lấy theo một trong nhiều khu lò gốm nơi đây, nằm phía sau chùa Cây Mai tọa lạc trên gò Mai, thuộc Gia Định xưa. Đây là lò gốm có tiếng nhất vùng , sản phẩm mỹ thuật được xuất sang Pháp tham dự sự kiện triễn lãm các mặt hàng thủ công, mỹ nghệ đỉnh cao từ những năm 1906.
Đặc điểm : Lọai sản phẩm gốm độc đáo và đặc trưng của gốm Cây Mai là gốm men màu khá phong phú như trắng, xanh lam, xanh lục, nâu, vàng . Màu men đặc trưng gốm Cây Mai là xanh lục đậu

Choé gốm Gò Sành
Choé gốm Gò Sành

- Choé gốm Gò Sành: ở Bình Định từ cuối thế kỷ XIII - XV
Đặc điểm: Gốm lò sành có các đặc điểm chính là độ rắn cao, không thấm nước (độ thấm nước dưới 1%), thường có màu nâu hoặc hoài cổ, và được tạo ra bằng cách nung đất sét ở nhiệt độ cao. Có nhiều màu sắc đa dạng,  riêng về chum ché ngâm rượu sẽ có những màu nóng như da lương men chảy, vàng cam là màu thịnh hành nhất. Những họa tiết thường thấy tích bông cúc, phượng, rồng, tứ quý và các con vật

Choé gốm Lái Thiêu
Choé gốm Lái Thiêu
Choé gốm Lái Thiêu

- Choé gốm Lái Thiêu : Hình thành từ khoảng giữa thế kỷ XIX, gốm Lái Thiêu là sự giao thoa kỹ thuật và mỹ cảm của ba dòng gốm người Hoa: Triều Châu, Phúc Kiến và Quảng Đông.
Đặc điểm :  Đề tài trang trí trên chóe mang nhiều yếu tố Trung Hoa đồng thời cũng ảnh hưởng nhiều của văn hóa bản địa vùng Đông Nam Bộ Việt Nam. Dòng chóe này thường trang trí những đề tài như Long Phụng, hoa cúc, hoa mẫu đơn, lưỡng long phun châu, lưỡng long triều Nhật còn có thêm hình cánh hoa trong có hình hươu, thọ, trang trí hình rùa đặp nổi và chữ Thọ quanh vai, những dải chấm tròn nổi. Cũng có chóe được trang trí hình thằn lằn, rùa, thỏ rồng quanh thân.

Choé mẹ bồng con – gốm Bàu Trúc

- Choé gốm Bàu Trúc : Làng gốm Chăm Bàu Trúc ở Ninh Thuận có tuổi đời hơn 800 năm đã được UNESCO ghi danh vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp của nhân loại. Đây được xem là một trong những làng gốm cổ nổi tiếng nhất Đông Nam Á còn tồn tại đến ngày nay.
Đặc điểm : Gốm Bàu Trúc mê hoặc nhiều người bởi vẻ đẹp mộc mạc và kỹ thuật chế tác thô sơ. Để tạo ra một sản phẩm gốm phải trải qua rất nhiều công đoạn. Đặc biệt, đất sét để làm gốm phải là đất sét đen Nét độc đáo của nghề làm gốm Bàu Trúc là không dùng bàn xoay. Người ta gọi kỹ thuật làm gốm Bàu Trúc bằng cái tên rất dân dã “làm bằng tay, xoay bằng mông”.

Yang (chum tàu) đất sét nâu đen thân tròn miệng nhỏ dây mây.

- Yang : chum tàu
Chất liệu : đất sét
Màu sắc:  nâu , đen
Đặc điểm : thân tròn, miệng nhỏ, có dây mây đựng để dễ mang đi.

Bộ sưu tập văn hóa đồng bào dân tộc Tây Nguyên tại Khu Du Lịch Thác Đambri là một hành trình đầy cảm hứng, nơi du khách được chạm vào linh hồn của vùng đất cao nguyên hùng vĩ. Mỗi hiện vật trong bộ sưu tập – từ dụng cụ sinh hoạt giản dị như plai lềnh (trái bầu), gláh ụ (nồi đất), đến công cụ săn bắt mạnh mẽ như sơr na (nỏ) hay tạ (giáo); từ nhạc cụ vang vọng như cồng chiêng, đàn đá (Goong lu), đến những món trang sức tinh xảo như dây cườm, vòng ống đồng, và các kiệt tác gốm sứ từ Cây Mai, Gò Sành, Bàu Trúc – đều kể một câu chuyện riêng, nhưng hòa quyện thành bức tranh văn hóa sống động của các dân tộc Mạ, K'Ho, S’tiêng, Cơ Tu và nhiều cộng đồng bản địa khác.

Những món đồ này không chỉ là sản phẩm của bàn tay khéo léo mà còn là minh chứng cho sự kiên cường, sáng tạo, và sự gắn bó sâu sắc với núi rừng, đất trời. Chúng phản ánh đời sống nương rẫy, tín ngưỡng Yàng, và những giá trị tâm linh, cộng đồng đã được gìn giữ qua hàng nghìn năm. Dưới bóng mát của rừng nguyên sinh và tiếng thác Đambri réo vang, bộ sưu tập như một cuốn sử thi bằng hiện vật, nơi mỗi chiếc nồi, vòng cườm hay tiếng cồng chiêng đều vang lên nhịp đập của văn hóa Tây Nguyên.

Hãy đến với Thác Đambri, nơi bạn không chỉ chiêm ngưỡng những di sản văn hóa quý giá mà còn được hòa mình vào không gian của lễ hội, âm nhạc, và câu chuyện về những con người đã làm nên bản sắc Tây Nguyên. Bộ sưu tập này là lời mời gọi bạn bước vào một hành trình khám phá, nơi quá khứ và hiện tại giao thoa, để lại dấu ấn bất tận về một vùng đất anh hùng, giàu bản sắc và đầy sức sống.

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây